Đại Việt sử ký toàn thư chép: Nhâm Thìn, Thiệu Phong năm thứ 12 (1352) mùa thu, tháng 7, nước lớn tràn ngập, vỡ đê xã Bát, Khối, lúa má chìm ngập. Khoái Châu, Hồng Châu và Thuận An bị hại nhất. Xã Bát là xã Bát Tràng, xã Khối là xã Thổ Khối, hai xã ven đê bên tả ngạn sông Nhị, tức sông Hồng ngày nay.
Cũng theo Đại
Việt sử ký toàn thư thì năm 1376, trong một cuộc Nam chinh, đoàn chiến
thuyền của vua Trần Duệ Tông xuất phát từ Thăng Long xuôi theo sông
Nhị (sông Hồng) đi qua "bến sông xã Bát" tức bến sông Hồng thuộc xã Bát
Tràng.
Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép "Làng Bát Tràng làm đồ bát chén" và còn
có đoạn "Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Câu thuộc huyện Văn Giang.
Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm
vải thâm"...
Nhưng theo những câu chuyện thu thập được ở Bát Tràng thì làng gốm này
có thể ra đời sớm hơn. Tại Bát Tràng đến nay vẫn lưu truyền những huyền
thoại về nguồn gốc của nghề gốm như sau:
Vào thời nhà Lý, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào
Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống.
Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng
Đông) (hiện nay tại Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) gặp bão,
phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được
một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều
truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà
(huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương
Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ
màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù
Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát
Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm
1127.
Theo ký ức và tục lệ dân gian thì trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có
dòng họ Nguyễn Ninh Tràng. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Ninh Tràng là họ
Nguyễn ở trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Thanh Hoá, nhưng chưa có tư liệu
xác nhận. Gia phả một số dòng họ ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm,
Nguyễn... ghi nhận rằng tổ tiên xưa từ Bồ Bát di cư ra đây (Bồ Bát là Bồ
Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê khoảng cuối thế kỉ thứ 14 - đầu
thế kỉ 15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng
Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hoá Ngoại. Ngày nay,
Bồ Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh
Ninh Bình, vùng này có loại đất sét trắng rất thích hợp với nghề làm
gốm. Theo truyền thuyết và gia phả một số họ như họ Vũ ở Bồ Xuyên, ngày
xưa cư dân Bồ Bát chuyên làm nghề gốm từ lâu đời. Điều này được xác
nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm ken dày đặc tìm
thấy nhiều nơi ở vùng này.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, Thăng Long trở thành
trung tâm chính trị của nước Đại Việt. Do nhu cầu phát triển của kinh
thành, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long hành
nghề và lập nghiệp. Sự ra đời và phát triển của Thăng Long đã tác động
mạnh đến hoạt động kinh tế của các làng xung quanh, trong đó có làng
Bát Tràng. Đặc biệt vùng này lại có nhiều đất sét trắng, một nguồn
nguyên liệu tốt để sản xuất đồ gốm. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra
đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường
(phường Đất Trắng). Những đợt di cư tiếp theo đã biến Bát Tràng từ một
làng gốm bình thường đã trở thành một trung tâm gốm nổi tiếng được
triều đình chọn cung cấp đồ cống phẩm cho nhà Minh.
Đến nay, chưa tìm thấy tư liệu lịch sử nào xác nhận tiểu sử của ba nhân
vật trên cũng như khẳng định sự hình thành của làng. Những công trình
khai quật khảo cổ học trong tương lai có thể cho thấy rõ hơn bề dày lịch
sử và những di tích của làng gốm Bát Tràng. Chỉ có điều chắc chắn là
gốm Bát Tràng xuất hiện từ rất sớm, vào giai đoạn cuối của Văn hoá Hoà
Bình đầu Văn hoá Bắc Sơn. Trong quá trình phát triển nghề gốm, đương
nhiên có nhiều quan hệ giao lưu với gốm sứ Trung Quốc và có tiếp nhận
một số ảnh hưởng của gốm sứ Trung Quốc.
Thế kỉ 15–16
Một chiếc đỉnh bằng gốm tráng men trang trí đắp nổi rồng và nghê do thợ làng Bát Tràng chế tạo vào năm 1736, thời Cảnh Hưng. |
Tượng nghê bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh Hưng. |
Chính sách của nhà Mạc đối với công
thương nghiệp trong thời gian này là cởi mở, không chủ trương "ức
thương" như trước nên kinh tế hàng hoá có điều kiện phát triển thuận lợi
hơn; nhờ đó, sản phẩm gốm Bát Tràng được lưu thông rộng rãi. Gốm Bát
Tràng thời Mạc có nhiều sản phẩm có minh văn ghi rõ năm chế tạo, tên
người đặt hàng và người sản xuất. Qua những minh văn này cho thấy người
đặt hàng bao gồm cả một số quan chức cao cấp và quý tộc nhà Mạc như
công chúa Phúc Tràng, phò mã Ngạn quận công, Đà quốc công Mạc Ngọc
Liễn, Mĩ quốc công phu nhân... Người đặt hàng trải ra trên một không
gian rộng lớn bao gồm nhiều phủ huyện vùng đồng bằng Bắc Bộ và bắc
Trung Bộ.
Thế kỉ 16–17
Sau những phát kiến địa lí cuối thế kỉ 15, nhiều nước phát triển của Tây
Âu tràn sang phương Đông. Các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
thành lập công ty, xây dựng căn cứ ở phương Đông để buôn bán. Hoạt động
mậu dịch hàng hải khu vực Đông Nam Á vốn có lịch sử lâu đời càng trở
nên sôi động, lôi cuốn các nước trong khu vực vào hệ thống buôn bán
châu Á và với thị trường thế giới đang hình thành.
Sau khi thành lập, nhà Minh (Trung Quốc) chủ trương cấm tư nhân buôn bán
với nước ngoài làm cho việc xuất khẩu gốm sứ nổi tiếng của Trung Quốc
bị hạn chế đã tạo điều kiện cho đồ gốm Bát Tràng mở rộng thị trường ở
vùng Đông Nam Á. Khi nhà Minh (Trung Quốc) bãi bỏ chính sách bế quan toả
cảng (1567) nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu và mặt hàng
quan trọng sang Nhật Bản, đã tạo cho quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và
Nhật Bản đặc biệt phát triển, qua đó nhiều đồ gốm Bát Tràng được nhập
cảng vào Nhật Bản.
Năm 1644 nhà Thanh (Trung Quốc) tái lập lại chính sách cấm vượt biển
buôn bán với nước ngoài, cho đến năm 1684 sau khi giải phóng Đài Loan.
Trong thời gian đó, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có
đồ gốm Bát Tràng không bị hàng Trung Quốc cạnh tranh nên lại có điều
kiện phát triển mạnh.
Thế kỉ 15–17 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của ngành sản xuất gốm xuất
khẩu Việt Nam, trong đó ở phía bắc có hai trung tâm quan trọng và nổi
tiếng là Bát Tràng và Chu Đậu-Mỹ Xá (các xã Minh Tân, Thái Tân, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Lúc bấy giờ, Thăng Long (Hà Nội) và Phố Hiến
(nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là hai đô thị lớn nhất và cũng là hại trung
tâm mậu dịch đối ngoại thịnh đạt nhất của Đàng Ngoài. Bát Tràng có may
mắn và thuận lợi lớn là nằm bên bờ sông Nhị (sông Hồng) ở khoảng giữa
Thăng Long và Phố Hiến, trên đường thuỷ nối liền hai đô thị này và là
cửa ngõ thông thương với thế giới bên ngoài. Qua thuyền buôn Trung Quốc,
Nhật Bản, các nước Đông Nam Á và các nước phương Tây, đồ gốm Việt Nam
được bán sang Nhật Bản và nhiều nước Đông Nam Á, Nam Á.
Các công ty phương Tây, nhất là Công ty Đông Ấn của Hà Lan, trong phương
thức buôn bán "từ Ấn Độ (phương Đông) sang Ấn Độ", đã mua nhiều đồ gốm
Việt Nam bán sang thị trường Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuối thế kỉ 17& đầu thế kỉ 18
Việc xuất khẩu và buôn bán đồ gốm Việt Nam ở Đông Nam Á bị giảm sút
nhanh chóng vì sau khi Đài Loan được giải phóng (1684) và triều Thanh
bãi bỏ chính sách cấm vượt biển buôn bán với nước ngoài. Từ đó, gốm sứ
chất lượng cao của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á và đồ gốm
Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa
để bảo vệ các nguyên liệu quý như bạc, đồng, đã đẩy mạnh được sự phát
triển các ngành kinh tế trong nước như tơ lụa, đường, gốm sứ... mà
trước đây phải mua sản phẩm của nước ngoài.
Thế kỉ 18–19
Tượng hổ bằng gốm do thợ gốm làng Bát Tràng làm thời Cảnh Hưng.
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách
mạng công nghiệp với những hàng hoá mới cần thị trường tiêu thụ rộng
lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với chính sách hạn chế ngoại thương của
các chính quyền Trịnh, Nguyễn trong thế kỉ 18 và của nhà Nguyễn trong
thế kỉ 19 đã làm cho quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam sa sút và
việc xuất khẩu đồ gốm cũng bị suy giảm. Đó là lí do khiến một số làng
nghề gốm bị gián đoạn sản xuất (như làng gốm Chu Đậu-Mỹ Xá). Gốm Bát
Tràng tuy có bị ảnh hưởng, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một
thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ,
đồ trang trí và gạch xây rất cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quý
tộc đến dân thường. Trong giai đoạn này, gốm Bát Tràng xuất khẩu giảm
sút, nhưng làng gốm Bát Tràng vẫn là một trung tâm sản xuất gốm truyền
thống có tiếng trong nước.
Thế kỉ 19 đến nay
Trong thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm
sứ và hàng ngoại nhập cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được hoạt động bình
thường.
Sau Chiến tranh Đông Dương (1945–1954), năm 1957, 10 cá nhân là địa chủ,
con địa chủ của thôn Giang Cao(sau cải cách ruộng đất năm 1955) góp
vốn thành lập công ty gốm Trường Thịnh, để sản xuất gốm sứ dân dụng
phục vụ xã hội, đây là nền tảng khởi đầu cho Xí nghiệp sứ Bát Tràng.
Năm 1958 nhà nước làm công tư hợp doanh, chuyển đổi công ty gốm Trường
Thịnh thành Xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát Tràng vào
làm việc. Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công Bát Tràng được thử
nghiệm, thực hành, sáng tạo trên cơ sở sự chịu khó, cần cù đã tạo nên
được một thế hệ có tay nghề gốm vững chãi. Cùng lúc đó một số hợp tác
xã như Hợp Thành (1962), đóng ở phần đất gần với xã Đa Tốn, Hưng Hà
(1977), Hợp Lực (1978), Thống Nhất (1982), Ánh Hồng (1984) và Liên hiệp
ngành gốm sứ (1984)Xí nghiệp X51, X54 (1988)... Các cơ sở sản xuất
trên cung cấp hàng tiêu dùng trong nước, một số hàng mĩ nghệ và một số
hàng xuất khẩu. Những nghệ nhân nổi tiếng như của Bát Tràng như Đào Văn
Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê Văn Vấn, Lê Văn Cam... đào tạo được nhiều
thợ gốm trẻ cung cấp cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh.
Sau năm 1986 làng gốm Bát Tràng có sự chuyển biến lớn theo hướng kinh tế
thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể hoặc chuyển thành công ty
cổ phần, những công ty lớn được thành lập nhưng vẫn còn tồn tại nhiều
tổ sản xuất và phổ biến là những đơn vị sản xuất nhỏ theo hộ gia đình.
Xã Bát Tràng nay đã trở thành một trung tâm gốm lớn.
Hiện nay, sản phẩm gốm Bát Tràng càng ngày càng phong phú và đa dạng.
Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm Bát Tràng còn sản xuất nhiều
sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong Việt Nam như các loại ấm
chén, bát đĩa, lọ hoa... kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ
cách điện... và các sản phẩm xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài.
Sản phẩm Bát Tràng có mặt trên thị trường cả nước và được xuất khẩu
sang nhiều nước châu Á, châu Âu. Bát Tràng cuốn hút nhiều nhân lực từ
khắp nơi về sáng tác mẫu mã mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Một số
nghệ nhân đã bước đầu thành công trong việc khôi phục một số đồ gốm cổ
truyền với những kiểu dáng và nước men đặc sắc thời Lý, Trần, Lê, Mạc...