Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 60 km và cách sông Lục đầu khoảng 4 km. Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách qua lại. Địa danh Phù Lãng có thể có từ cuối thời Trần đầu thời Lê. Vào thời kỳ này, Phù Lãng có 3 thôn: Trung thôn, Thượng thôn, Hạ thôn. Phù Lãng được trong và ngoài nước biết đến với nghề gốm truyền thống
Lịch sử
Theo Tô Nguyễn, Trình Nguyễn trong sách
Kinh Bắc-Hà Bắc thì ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú. Vào cuối
thời Lý, ộng được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong dịp đi này,
ông học được nghề làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Đầu tiên,
nghề này dược truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển
về vùng Vạn Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ 13) nghề
được truyền đến đất Phù Lãng Trung. Nghề gốm Phù Lãng được hình thành và
phát triển ở đây vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Hiện nay, Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng bày một số sản
phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ 17 - 19. Đó là sản phẩm gốm
men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm,
vàng nâu...
Sản phẩm gốm
Gốm Phù Lãng tập trung vào 3 loại hình:
* Gốm dùng trong tín ngưỡng (lư hương, đài thờ, đỉnh...);
* Gốm gia dụng (lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu...);
* Gốm trang trí (bình, ấm hình thú như ngựa, voi...).
Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm men
nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu… mà người ta gọi chung là
men da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử dụng
phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu
men tự nhiên, bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe
khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của
điêu khắc tạo hình.
Kỹ thuật làm gốm
Một xưởng sản xuất gốm gồm năm nhóm chính: tổ lò, tổ chuốt, tổ họa tiết, tổ men, tổ làm sạch.
Chọn và xử lý đất sét
Khác với những sản phẩm gốm lấy chất
liệu từ “xương” đất sét xanh của Thổ Hà, sét trắng của Bát Tràng, gốm
Phù Lãng được tạo nên từ “xương” đất đỏ hồng lấy từ vùng Thống Vát, Cung
Khiêm (Bắc Giang). Đất được chở về Phù Lãng theo đường sông. Điều này
rất thuận lợi do Phù Lãng không phải lấy đất sét tại chính làng họ,
tránh phá vỡ cấu trúc địa chất và cảnh quan làng nghề.
Ðất để làm đồ sành phải là loại đặc biệt, có độ dẻo. Lấy được đất về,
người thợ phải phơi cho đất bạc mầu trộn lẫn các lần đất, đập thành
những viên nhỏ bằng ngón chân cái rồi mới cho "ngậm" nước, sau đó xéo
tròn, nề đất, chọn sạn, phá, sa cho tới khi đất phải nhuyễn mịn như một
miếng giò mới thôi. Một miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo tới chục
lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành sản phẩm.
Dưới bàn tay của người thợ thủ công, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm
bảo độ dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc
trên khuôn
Tạo hình
Về mặt tạo hình, gốm Phù Lãng được sử
dụng nhiều phương pháp khác nhau trong nghệ thuật tạo dáng, với những
hình khối đa dạng. Nhưng nhìn chung có thể quy vào hai phương pháp cơ
bản: tạo hình trên bàn xoay và in trên khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi
dán ghép lại. Mỗi loại hình sản phẩm, mỗi chủng loại hàng đều có những
kỹ thuật, kỹ xảo riêng, tất cả đều nhằm đạt được hiệu quả tối đa về hai
phương diện kinh tế và thẩm mỹ.
Cũng như nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm), và Thổ Hà (Bắc Giang), phương
pháp tạo hình sản phẩm (có tiết diện tròn) là chuốt. Tất cả các sản phẩm
được đưa lên bàn xoay tay. Hoạt động xung quanh bàn xoay tay cần phải
có 2 người, trong đó một người chuyên ngồi chuốt, một người vần bàn
xoay. Người vần bàn xoay đồng thời làm nhiệm vụ lăn đất thành đòn để
chuốt (còn gọi là xe đòn). Sản phẩm sau khi đã tạo hình xong, để cho se
dần, đến khi sờ tay vào không thấy dính, lúc bấy giờ người thợ tiến hành
chúng, đấm, thúc bên trong của sản phẩm cho thành hình đồ vật, rồi lại
để cho ráo. Lúc này nếu thấy sản phẩm có vết rạn nứt thì được vá lại
bằng đất mịn và nát.
Tráng men
Chất liệu làm men tráng gồm có: Tro cây
rừng (loại cây mà khi đốt, tàn tro trắng như vôi, như tàn thuốc. Ngày
nay nghệ nhân Phù Lãng thường dùng tứ thiết là lim, sến, táu, nghiến),
hai là vôi sống (vôi tả), ba là sỏi ống nghiền nát, bốn là bùn phù sa
trắng. Bốn chất liệu này, sau khi sơ chế trộn đều với nhau theo một tỷ
lệ nhất định rồi để khô, đập nhỏ cho vào nước, gạn qua rây bột, từ đó
chế thành một chất lỏng quánh, vàng như mật ong. Khi sản phẩm còn ẩm,
người thợ dùng chổi lông quét men lên bên ngoài của sản phẩm một lớp
mỏng thích hợp rồi đem phơi. Sau khi quét men và phơi khô, sản phẩm có
màu trắng đục
Nung
Sau công đoạn vào men và tạo mầu, phơi
khô, sản phẩm được đưa vào lò nung ở nhiệt độ đến 1.000 độ C, để đảm bảo
gốm sành nâu có lớp da ngoài đanh mặt, nhẵn bóng và chắc. Xếp sản phẩm
trong lò nung phải tuân theo nguyên tắc tiết kiệm tối đa không gian
trong lò. Chi phí cho mỗi mẻ đốt lò trung bình cũng phải 25 đến 30 triệu
đồng, nếu không nắm vững kỹ thuật chọn đất, đốt lò... thì cả mẻ gốm
phải bỏ đi. Một lò thường được một nghìn sản phẩm và phải đun liền trong
ba ngày ba đêm. Vì vậy những sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải có mầu da
lươn vàng óng hay mầu cánh dán, khi gõ vào sản phẩm có tiếng vang. Mặc
dù nằm tiếp giáp với vùng than (Quảng Ninh) nhưng nhưng ở Phù Lãng người
ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để nung, nhờ sự biến
nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương
pháp nào có thể thay thế nổi. Xương đất sét có màu hồng nhạt, khi nung ở
nhiệt độ cao, xương gốm chuyển màu gan gà, với hai màu men chủ đạo là
nâu vàng và nâu đen (thường gọi là men da lươn). Nếu vẻ đẹp của Bát
Tràng là sự đa dạng về nước men, những nét vẽ tinh tế, thì hồn cốt của
Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc của nước men da lươn này.