Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

Giá bán: 38,000 VNĐ  - Mã sản phẩm: BTCTL 06
Cặp Cặp chậu tròn gốm đất đỏ trồng lan gốm sứ Bát Tràng, chậu nhỏ số 2 có kích thước đường kính miệng 18cm, chiều cao chậu 12cm; Chậu lớn số 1 với đường kính miệng 22, chiều cao chậu 15cm
Cặp chậu gốm trồng lan hình với họa tiết đơn giản khắc trực tiếp trên thân chậu cho bạn một chiếc chậu đẹp dùng để trồng lan
Cặp chậu tròn gốm đất đỏ trồng lan được sản xuất hoàn toàn thủ công, có nhiều lỗ thoáng giúp lan không bị úng nước
Cặp chậu tròn gốm đất đỏ trồng lan thích hợp với nhiều loại lan như: Vũ nữ, hồ điệp, Cattleya, đai châu, hoàng thảo... với màu đất đỏ tô điểm cho sân vườn nhà bạn
Chậu gốm đất đỏ lục giác độc hại khi sử dụng
- Cung cấp với số lượng lớn với giá cả phải chăng - Giá của sản phẩm chưa bao gồm 10%VAT và giá vận chuyển. - Giá của sản phẩm là giá tại thời điểm cập nhập trên web, để biết chính xác về giá của sản phẩm xin liên hệ với chúng tôi qua đường điện thoại nóng hoặc qua email để có được thông tin chính xác

Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014

Làng gốm Phù Lãng

Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 60 km và cách sông Lục đầu khoảng 4 km. Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách qua lại. Địa danh Phù Lãng có thể có từ cuối thời Trần đầu thời Lê. Vào thời kỳ này, Phù Lãng có 3 thôn: Trung thôn, Thượng thôn, Hạ thôn. Phù Lãng được trong và ngoài nước biết đến với nghề gốm truyền thống
Lịch sử
Theo Tô Nguyễn, Trình Nguyễn trong sách Kinh Bắc-Hà Bắc thì ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú. Vào cuối thời Lý, ộng được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong dịp đi này, ông học được nghề làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Đầu tiên, nghề này dược truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển về vùng Vạn Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ 13) nghề được truyền đến đất Phù Lãng Trung. Nghề gốm Phù Lãng được hình thành và phát triển ở đây vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng bày một số sản phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ 17 - 19. Đó là sản phẩm gốm men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu...
Sản phẩm gốm
Gốm Phù Lãng tập trung vào 3 loại hình:
    * Gốm dùng trong tín ngưỡng (lư hương, đài thờ, đỉnh...);
    * Gốm gia dụng (lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu...);
    * Gốm trang trí (bình, ấm hình thú như ngựa, voi...).
Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu… mà người ta gọi chung là men da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình.
Kỹ thuật làm gốm
Một xưởng sản xuất gốm gồm năm nhóm chính: tổ lò, tổ chuốt, tổ họa tiết, tổ men, tổ làm sạch.
Chọn và xử lý đất sét
Khác với những sản phẩm gốm lấy chất liệu từ “xương” đất sét xanh của Thổ Hà, sét trắng của Bát Tràng, gốm Phù Lãng được tạo nên từ “xương” đất đỏ hồng lấy từ vùng Thống Vát, Cung Khiêm (Bắc Giang). Đất được chở về Phù Lãng theo đường sông. Điều này rất thuận lợi do Phù Lãng không phải lấy đất sét tại chính làng họ, tránh phá vỡ cấu trúc địa chất và cảnh quan làng nghề.

Ðất để làm đồ sành phải là loại đặc biệt, có độ dẻo. Lấy được đất về, người thợ phải phơi cho đất bạc mầu trộn lẫn các lần đất, đập thành những viên nhỏ bằng ngón chân cái rồi mới cho "ngậm" nước, sau đó xéo tròn, nề đất, chọn sạn, phá, sa cho tới khi đất phải nhuyễn mịn như một miếng giò mới thôi. Một miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo tới chục lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành sản phẩm.

Dưới bàn tay của người thợ thủ công, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo độ dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc trên khuôn
Tạo hình
Về mặt tạo hình, gốm Phù Lãng được sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong nghệ thuật tạo dáng, với những hình khối đa dạng. Nhưng nhìn chung có thể quy vào hai phương pháp cơ bản: tạo hình trên bàn xoay và in trên khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi dán ghép lại. Mỗi loại hình sản phẩm, mỗi chủng loại hàng đều có những kỹ thuật, kỹ xảo riêng, tất cả đều nhằm đạt được hiệu quả tối đa về hai phương diện kinh tế và thẩm mỹ.

Cũng như nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm), và Thổ Hà (Bắc Giang), phương pháp tạo hình sản phẩm (có tiết diện tròn) là chuốt. Tất cả các sản phẩm được đưa lên bàn xoay tay. Hoạt động xung quanh bàn xoay tay cần phải có 2 người, trong đó một người chuyên ngồi chuốt, một người vần bàn xoay. Người vần bàn xoay đồng thời làm nhiệm vụ lăn đất thành đòn để chuốt (còn gọi là xe đòn). Sản phẩm sau khi đã tạo hình xong, để cho se dần, đến khi sờ tay vào không thấy dính, lúc bấy giờ người thợ tiến hành chúng, đấm, thúc bên trong của sản phẩm cho thành hình đồ vật, rồi lại để cho ráo. Lúc này nếu thấy sản phẩm có vết rạn nứt thì được vá lại bằng đất mịn và nát.
Tráng men
Chất liệu làm men tráng gồm có: Tro cây rừng (loại cây mà khi đốt, tàn tro trắng như vôi, như tàn thuốc. Ngày nay nghệ nhân Phù Lãng thường dùng tứ thiết là lim, sến, táu, nghiến), hai là vôi sống (vôi tả), ba là sỏi ống nghiền nát, bốn là bùn phù sa trắng. Bốn chất liệu này, sau khi sơ chế trộn đều với nhau theo một tỷ lệ nhất định rồi để khô, đập nhỏ cho vào nước, gạn qua rây bột, từ đó chế thành một chất lỏng quánh, vàng như mật ong. Khi sản phẩm còn ẩm, người thợ dùng chổi lông quét men lên bên ngoài của sản phẩm một lớp mỏng thích hợp rồi đem phơi. Sau khi quét men và phơi khô, sản phẩm có màu trắng đục
Nung
Sau công đoạn vào men và tạo mầu, phơi khô, sản phẩm được đưa vào lò nung ở nhiệt độ đến 1.000 độ C, để đảm bảo gốm sành nâu có lớp da ngoài đanh mặt, nhẵn bóng và chắc. Xếp sản phẩm trong lò nung phải tuân theo nguyên tắc tiết kiệm tối đa không gian trong lò. Chi phí cho mỗi mẻ đốt lò trung bình cũng phải 25 đến 30 triệu đồng, nếu không nắm vững kỹ thuật chọn đất, đốt lò... thì cả mẻ gốm phải bỏ đi. Một lò thường được một nghìn sản phẩm và phải đun liền trong ba ngày ba đêm. Vì vậy những sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải có mầu da lươn vàng óng hay mầu cánh dán, khi gõ vào sản phẩm có tiếng vang. Mặc dù nằm tiếp giáp với vùng than (Quảng Ninh) nhưng nhưng ở Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để nung, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế nổi. Xương đất sét có màu hồng nhạt, khi nung ở nhiệt độ cao, xương gốm chuyển màu gan gà, với hai màu men chủ đạo là nâu vàng và nâu đen (thường gọi là men da lươn). Nếu vẻ đẹp của Bát Tràng là sự đa dạng về nước men, những nét vẽ tinh tế, thì hồn cốt của Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc của nước men da lươn này.

Làng gốm Cậy

Cùng với các làng gốm Thổ Hà, Phù Lãng, Chu Đậu, Đông Triều, Bát Tràng…, gốm Cậy là làng nghề thủ công truyền thống lâu đời có một trình độ nghệ thuật cao, tạo được một dòng gốm men riêng biệt, làm phong phú gốm Việt Nam.
Cậy là tên nôm của làng Kệ Gián, thuộc tổng Binh Dã, huyện Đường An, thời Lê, nằm bên hữu ngạn sông Kẻ Sặt. Sát làng Cậy có làng Hương Gián, sau đổi là làng Nam Gián, thuộc tổng Triền Đỗ cùng huyện. Cả hai làng này cùng dựng lò gốm, công nghệ làm gốm hai làng giống nhau. Vì nằm sát bến đò Cậy nên người dân quanh vùng vẫn quen gọi vùng gốm nơi này là gốm Cậy.

Làng Cậy có trên 600 hộ, ngót 300 khẩu, hơn 300 mẫu ruộng. Người đông, ruộng đất ít, công nghệ gốm đã thu hút nhiều người tham gia. Khách lạ đến làng Cậy, cũng dễ nhận ra nơi đây là làng gốm cổ. Làng nằm bên bờ sông, nằm trên tầng tầng lớp lớp gốm vỡ. Đường làng ngõ xóm hầu như được làm từ các mảnh gốm.

Làng Cậy có ngôi đình lớn, thờ thành hoàng Bảo Phúc Đại Vương, sống vào đời Hùng Vương thứ 17, có công giúp Vua Hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không biết có phải ngài là ông tổ nghề gốm ở đây không? Hay chăng tổ nghề ở đây chỉ là truyền thuyết?

Sản phẩm gốm ở Cậy cũng rất đa dạng. Nào bát, đĩa, ấm, chén, bình hoa... Nhưng đặc biệt là có loại gạch lớn được nung rất khéo. Gạch này vốn là bao thơi của gốm. Gạch của làng Cậy chín già, có kích thước lớn, thường được dùng làm chân kê cột đình, cột chùa và lát các lối đi trong đền, đình rất đẹp.

Các lò gốm ở Cậy lấy nguyên liệu đất sét ở đâu? Theo các cụ già ở làng, từ xa xưa, người thợ gốm Cậy lấy đất sét ở hai bờ sông của làng làm gốm. Loại đất sét này rất mịn, tạo ra sản phẩm gốm óng chuốt. Sau này, nguồn đất sét ở quê cạn kiệt, người thợ gốm Cậy phải dùng đất sét cao lanh khai thác tận Đông Triều - Quảng Ninh. Ngày nay, men gốm Cậy vẫn phải dùng đất sét cao lanh ở Hồ Lao, Đông Triều, nghiền lẫn cùng tro trấu, tro củi lọc kỹ. Men gốm Cậy thường là men màu lam nhạt, mang phong cách gốm Cậy, khác hẳn gốm Thổ Hà, gốm Bát Tràng.

Theo một số tư liệu, gốm Cậy đã từng chiếm được thị trường trong và ngoài nước. Hiện tại, ở Bảo tảng Cổ vật Topkápu Sarêgi tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ có lưu giữ một bình gốm hoa lam của làng Cậy. Bình gốm này cao 66 cm, chân tròn như quả bí đỏ, cổ thẳng và cao, hơi loe miệng. Sườn và đáy lọ trang trí hoa dây. Thân lọ có 13chữ “Hán Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút”. Tạm dịch: Năm Thái Hòa thứ tám (1450) tại châu Nam Sách, thợ gốm Bùi Thị Hý vẽ.

Từng là một trong những địa chỉ “danh bất hư truyền” của gốm, tuy nhiên, hiện làng Cậy chỉ còn hơn 10 hộ duy trì nghề sành sứ, sản phẩm chủ yếu vẫn là chén bát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ và manh mún. Hiện làng chỉ còn hai nghệ nhân gìn giữ được kỹ thuật bí truyền của gốm cổ xưa.

Làng gốm Thổ Hà

Cách Hà Nội hơn 40km, khác với làng gốm Bát Tràng buôn bán sầm uất, làng gốm Thổ Hà xã Vân Hà, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Nằm êm đềm bên con sông Cầu. Bước chân vào tới đầu làng, ấn tượng đầu tiên của Thổ Hà là sự mộc mạc, chân chất. Những con đường nho nhỏ, những mái ngói cổ và những bức tường trần với màu nâu đỏ mộc mạc.... tất cả đều gợi lên sự yên bình.
Nghề gốm, một nghề thủ công cổ truyền đặc sắc của Thổ Hà không kém phần nổi tiếng so với gốm Bát Tràng, Hà Nội. Theo lời kể của bác Trịnh Đắc Tân, một người con của làng Thổ Hà và cũng là một nghệ nhân làm gốm Thổ Hà có tiếng thì nghề gốm nơi đây có từ thế kỉ XIV. Để có thể tạo ra được các loại sản phẩm rất bền đẹp như chum, vại, kiệu... màu nâu sẫm, màu da lươn, người ta phải mua đất sét từ Choá (Yên Phong) cách xa gần 10 ki-lô-mét, hoặc mua đất sét ở Xuân Lai, cách 12km và phải chở qua sông rất vất vả. Đó là loại sét vàng "lõi mít", sét xanh "búp o­ng", ít sạn và tạp chất có đặc tính dễ tạo hình và định hình khi nung ở nhiệt độ cao. Cũng nhờ vậy mà Thổ Hà có thể tạo ra các sản phẩm cỡ lớn với dung tích 400-500 lít được nhân dân ta mua dùng nhiều.

Xưa kia nghề gốm đã giúp người dân Thổ Hà trở nên giàu có nhất nhì vùng Kinh Bắc. Nhịp sống của làng gốm rất sôi động. Tinh mơ chợ gốm đã họp ở đầu dốc. Những đoàn xe thồ, gánh hàng rong... từ các nơi dồn đổ về. Hàng bày la liệt, chất ngất đủ kiểu, màu sắc, loại men... tha hồ lựa chọn. Cũng nhờ làng nghề phát triển mà người dân Thổ Hà đã xây được rất nhiều từ chỉ, điếm, đình và chùa. Còn người dân các làng lân cận như: làng Giềm, Đại Lâm thường kéo nhau sang bên Thổ Hà làm thuê... Thế nhưng, khi đồ nhựa ra đời thì người làng Thổ Hà không tìm được đầu ra cho sản phẩm, lượng gốm tiêu thụ giảm đi đáng kể và cứ thế gốm mất dần thị trường và Thổ Hà cũng bị mai một dần nghề cổ truyền... Giờ đây người ta nhắc tới Thổ Hà bằng cái tên mới : Làng làm bánh đa nem.

Với những người say mê phong cảnh hữu tình của làng Việt, với những nghệ sĩ, nghệ nhân muốn tìm cảm hứng sáng tác thì làng gốm cổ Thổ Hà luôn là điểm đến đầu tiên. Bởi Thổ Hà là một ngôi làng còn lưu giữ được nhiều nét cổ xưa của một làng nghề miền Bắc Việt . Hình ảnh đầu tiên gây cảm xúc cho chúng tôi khi đặt chân đến nơi đây là những con đò đơn sơ đậu bên bến nước với những cây si già buông chùm rễ dài xù xì xuống dòng sông. Lũ trẻ làng vắt vẻo trên cành cây, tiếng cười đùa lanh lảnh lan tỏa trên mặt nước. Ngay trên bến có một ngôi đền cổ thờ Thành Hoàng. tường gạch rêu phong. Ông tổ của nghề gốm làng Thổ Hà được cho là tiến sĩ Đào Trí Tiến. Ông đã học được nghề gốm trên đường đi sứ Trung Quốc và truyền lại cho dân làng từ thế kỷ XIV.

Cạnh ngôi đền là một quán nước nhỏ, bàn ghế gỗ cũ kỹ trên nền đất lồi lõm. Bà chủ quán mái tóc bạc phơ, hiền hậu, ngồi nhai trầu bỏm bẻm như trong truyện cổ tích. Những con đường trong làng nhỏ hẹp và đều được lát bằng thứ gạch đỏ truyền thống đã mòn vẹt vì thời gian. Nhà cửa san sát, mái ngói nhuốm màu rêu phong. Những bức tường không trát vữa, có chỗ chỉ là những viên gạch, ngói nung hay tiểu sành được xếp chồng lên nhau theo tầng, theo lớp, tạo nên một sự độc đáo trong xây dựng. Cổng làng, đình, chùa nơi đây mang dáng dấp, màu sắc cổ xưa và hầu hết đều được xây bằng gạch thô không trát vữa...

Cổng làng Thổ Hà bề thế với lối kiến trúc cổ kính, trầm mặc mà dân dã được làm từ đôi bàn tay của những nghệ nhân dân gian của làng, thể hiện sự thịnh vượng của nghề gốm xưa kia. Đình làng Thổ Hà được dựng năm 1692, đây là công trình văn hoá được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Hoa văn rồng phượng ẩn hiện trong mây hài hoà cùng người và cỏ cây, hoa lá, muông thú còn ghi lại dấu ấn bàn tay tài hoa của người thợ khắc. Theo tấm bia cổ để lại, đình Thổ Hà là kết quả công sức đóng góp của toàn thể dân làng Thổ Hà. Ngôi đình là công trình thể hiện niềm tự hào của các thế hệ người dân Thổ Hà. Chùa Thổ Hà có tên chữ là Đoan Minh tự được xây dựng vào năm 1679, quy mô lớn, bao gồm tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Qua Tam quan một quãng xa mới tới gác chuông, phía trước có hai sấu đá, bên phải là bia chùa. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá. Trong chùa có tượng Phật Quan Âm ngồi tòa sen trên một bông hoa to hơn, lại đặt nghiêng trên một bông hoa đang nở, hai bên có hai người đỡ và dưới cùng là một gốc cậy vững chãi…

Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng soi nghiêng, những vòm cổng, những ngôi nhà, ngôi chùa cùng ngôi đình cổ kính, những bức tường được xây bằng gốm nung được chiếu vào toát lên vẻ đẹp vàng, đỏ in dấu vết của thời gian. Vẻ đẹp cổ kính ở những khu kiến trúc cổ, làng cổ cùng với những nghề in đậm hồn quê, Thổ Hà đang là một địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan.

Danh sách nghệ nhân làng Bát Tràng

Ai cũng biết, Bát Tràng là làng có nghề gốm sứ truyền thống nổi tiếng ở thủ đô Hà Nội. Với bàn tay tài hoa, người thợ gốm Bát Tràng đã biến những nắm đất sét vô hồn, vô tri thành những tác phẩm nghệ thuật tinh túy và sinh động. Danh sách các nghệ nhân làng gốm Bát Tràng, giúp các bạn có được hình dung về những người đang ngày sáng tạo thêm sản phẩm mới cho làng nghề.
 I. Làng cổ Bát Tràng (Thuộc thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng)
1. Nghệ nhân Trần Độ
Phục chế gốm cổ Thăng Long, gốm men nâu đời Trần và sáng chế nhiều bài men đẹp, độc đáo. Đây cũng là nghệ nhân nổi tiếng nhất của làng nghề Bát Tràng, lò gốm của ông đã vinh dự được tiếp nhiều nhà lãnh đạo cấp cao ghé thăm như: Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Nguyên phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa, Tổng bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
2. Nghệ nhân Vương Mạnh Tuấn
Chuyên sâu về lĩnh vực phục chế gốm cổ như: bình gốm men rạn truyền thống, đắp hoa văn nổi, đắp phù điêu theo các tích cổ…
3. Nghệ nhân Tô Thanh Sơn
Phục chế men Lam thời Nguyễn, pha chế thành công men rạn thời hiện đại.
4. Nghệ nhân Nguyễn Văn Hưng
Nổi tiếng với tài năng vẽ. Ông cũng là con của nghệ nhân Nguyễn Văn Cổn – Một trong số ít các nghệ nhân của làng gốm Bát Tràng xưa.
5. Nghệ nhân Lê Minh Châu
Chuyên sâu về các loại bình lo hoa các cỡ. Con trai ông, anh Lê Minh Ngọc cho ra đời chiếc độc bình cao nhất Việt Nam (với chiều cao 3,2m đã được ghi vào sách kỷ lục Việt Nam), chiếc độc bình này đã được tham gia trưng bày tại nhiều triển lãm gốm sứ Bát Tràng như: Triển làm gốm sứ Bát Tràng tại Văn Miếu, Vân Hồ, chợ gốm Bát Tràng…
6. Nghệ nhân Vũ Đức Thắng
Tôt nghiệp Đại học Mỹ thuật công nghiệp, ông chuyên sâu về cá loại men màu, các sản phẩm của ông đều mang tính mỹ thuật cao
7 – 8 Nghệ nhân Nguyễn Lợi và nghệ nhân Phạm Thị Châu
Đây là trường hợp duy nhất ở Bát Tràng mà cả hai vợ chồng đều được phong làm nghệ nhân, cả hai vợ chồng nghệ nhân đều tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội
8. Nghệ nhân Trần Hợp
Nổi tiếng với hai nước men Kết tinh và Huyết dụ
9. Nghệ nhân Nguyễn Khang
Chuyên sâu về tranh sứ và và tranh gốm. Khang Oanh là một thương hiệu nổi tiếng trong thị trường tranh gốm sứ ở làng Bát Tràng
II. Làng Giang Cao (Thuộc thôn Giang Cao, xã Bát Tràng)
1. Nghệ nhân Đào Văn Cam
Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Đông Dương xưa, nay là Đại học Mỹ thuật Yết Kiêu, ông chuyên sâu về đồ gốm giả cổ.
2. Nghệ nhân Nguyễn Ánh Dương
Chuyên sâu về men giả đồng.
3. Nghệ nhân Lê Quang Chiến
Họa sỹ, giảng viên Đại học Mỹ thuật Công nghiệp

Danh hiệu “Nghệ nhân Hà Nội” do sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội ban tặng và trao bằng công nhận thông qua các cuộc thi

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014

Tới Văn Miếu những ngày này, người xem như được ngược dòng thời gian về nhiều thế kỷ trước qua 1.000 sản phẩm gốm giả cổ của nghệ nhân Trần Độ. Đây cũng là món quà của một người con làng nghề dâng lên Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.


Mọi người gọi ông là một trong những nghệ nhân tiêu biểu của gốm Bát Tràng đương đại, hay vua men gốm Bát Tràng nhưng những danh xưng có lẽ không đủ sức nặng bằng những sản phẩm do ông sáng tạo ra được giới thiệu tại triển lãm “Hồi cố và thể nghiệm” đang diễn ra. Gốm Trần Độ hội tụ các tinh hoa của gốm Bát Tràng, vừa mang tính dân tộc, vừa có sự cách tân, đổi mới.
Trong các tác phẩm của ông, có thể thấy bóng dáng nhiều dòng gốm men cổ Việt Nam như: Gốm men ngọc thế kỷ 11, gốm hoa nâu thời Lý, gốm hoa lam thời Mạc, men nhiều màu thời Hậu Lê - Nguyễn, gốm men rạn... Tại triển lãm, có nhiều sản phẩm như các loại ấm rượu, ché, cặp choé, các mẫu thạp chạm khắc, bình gốm hoa lam thời Mạc, các loại chân đèn, lư hương… mang hồn của Bát Tràng xưa, mang hơi thở của truyền thống gốm sứ Việt.

Bên cạnh những mẫu gốm tạo dáng và trang trí kế thừa truyền thống tác phẩm của nghệ nhân Trần Độ còn trở nên đặc sắc với những màu men mới như màu men chảy, màu thuý lam, màu men đỏ… Một trong những tác phẩm tiêu biểu của triển lãm lần này là tượng “cụ rùa Hồ Gươm” là món quà độc đáo mà Trần Độ đã dành nhiều tâm sức thể hiện, tạo một món quà nghệ thuật quý chào mừng kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Nói về nghệ nhân Trần Độ, ông Trần Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tiết lộ: “Trần Độ chọn cho mình một lối đi riêng, không hề đơn giản: Tìm tòi phục chế những hình khối, màu men cổ. Đến nay, trong gia tài Trần Độ đã có được trên 70 bài men cổ. Riêng dòng men ngọc, ông có tới 12 công thức khác nhau, tạo ra 12 biến tấu của loại men này. Rồi men lam, men rau, men đá, men chảy, men nâu, men đen...

Men nâu là mầu nâu trầm rất lạ chưa thấy có ở Bát Tràng. Dùng những bài men đó, ông đã tái phục chế lại hàng trăm sản phẩm gốm cổ từ thời Lý - Trần - Lê như lư hương, chân đèn, bình, lọ, chum, choé, bát đĩa được thể hiện qua các lớp men rạn, men chảy các màu trắng, nâu, xanh ngọc... mà vẫn giữ được những hoa văn cổ xưa, chất men giản dị và thanh thoát. Và trong số nghệ nhân tên tuổi ở làng Bát Tràng, người đã làm ra nhiều tác phẩm gốm được chọn làm quà tặng ngoại giao của Chính phủ nước ta, cũng chính là nghệ nhân Trần Độ”.

Trong 80 món quà tặng, gồm những sản phẩm phục cổ, giả cổ mà Văn phòng Chính phủ đặt làm quà lưu niệm cho các nguyên thủ quốc gia tham dự Hội nghị Cấp cao ASEM5 tổ chức tại Hà Nội tháng 10-2004 phải kể tới một chiếc bình rượu cổ triều Mạc có chất lượng và dáng vẻ tuyệt đẹp. Một năm sau đó, ông là người duy nhất được chọn thực hiện lô hàng đặc biệt gồm 219 món đồ gốm với gần 10 loại sản phẩm phục chế theo nguyên mẫu còn lưu giữ trong sách cổ và mẫu lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Đó là một chiếc đỉnh triều Nguyễn được tặng cho Tổng thống Mỹ, một đôi bình thời Trần có hình ảnh vợ chồng Thủ tướng Canada, chiếc bình tặng Thủ tướng Nhật Bản... Những “món đồ đất có hồn” của Trần Độ cũng đã theo chân Thủ tướng Phan Văn Khải sang Hoa Kỳ, Canada làm quà cho các chính khách nước sở tại. “Đó không chỉ là niềm tự hào gốm truyền thống Bát Tràng mà còn khẳng định một sức sống mãnh liệt ẩn dưới lớp áo cứ ngỡ là vô tri của đất…”.

10 tuổi, Trần Độ đã bước vào thế giới của gốm. Ông chia sẻ: “Thời điểm ấy, bàn tay non nớt của một đứa trẻ phải giã từ những trò chơi cùng chúng bạn đồng trang lứa, tôi không có tham vọng trở thành một nghệ nhân gốm như bây giờ”. Thế nhưng, sự kì diệu không báo trước và mối lương duyên tiền định đã chọn Trần Độ là người đại diện khơi nguồn cho hồn gốm cổ.

Với tài năng thiên bẩm, sự tinh tế và đồng cảm tuyệt vời cộng với một trái tim đầy rung cảm nghệ thuật, Trần Độ sớm nhận thấy và lĩnh hội được những tinh tuý mà cha ông đã ngàn năm đúc kết. Với Trần Độ, nghề gốm không phải là con đường mưu cầu những danh lợi vật chất mà chỉ là sự thoả mãn khát vọng vực dậy dòng gốm cổ đang chìm dần vì sự “đè nén” của dòng gốm thương mại đang tung hoành.

Những giải thưởng, bằng khen không làm ông bằng lòng mà trái lại trở thành động lực thôi thúc ông khát khao hướng tới một nghệ thuật đích thực. Để có được thành công từ bí quyết của việc phục chế các màu men cổ có lẽ nghệ nhân là người hiểu hơn ai hết những thất bại đã trải qua.

Ông tâm sự, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần tới thăm cơ sở sản xuất của tôi đã căn dặn, động viên tôi phải nghiên cứu, tìm tòi, khôi phục giữ gìn được kho tàng gốm cổ, nhất là trong bối cảnh “chảy máu” cổ vật hiện nay” càng làm cho tôi thêm quyết tâm. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long lập nghiệp.

Bát Tràng tuy là ngoại thành nhưng là một dải đất quý của Thăng Long, nơi đây mang một thứ mà nội đô không có ấy là thứ đất sét trắng làm nên những sản phẩm chất chứa hồn cốt bao đời của văn hoá Thăng Long. Bởi lẽ đó mà không có lí gì người con Bát Tràng như tôi lại không làm gì đó để phát huy cái báu vật trời cho ấy để gìn giữ và phát huy nghề truyền thống tổ tiên.
Làng gốm Bát Tràng cách trung tâm Hà Nội hơn 10km. Bất cứ ai ở ngôi làng 500 năm tuổi này cũng đều biết làm gốm, nhưng bậc phù thủy của Đất - Nước và Lửa - ba đại lượng trong phương trình của gốm thì phải kể đến Trần Độ - một trong những tài hoa giữ hồn gốm cổ…
Thế hệ thứ 18 của dòng họ “kiếm cơm từ đất”


Năm 1975 ông vào làm công nhân xí nghiệp gốm sứ Bát Tràng. Sau hai năm, ông lên đường nhập ngũ, năm 1982 ra quân ông trở về công tác tại Xí nghiệp sứ Bát Tràng sau đó là HTX Ánh Hồng, ông từng được cử đi 6 tỉnh phía Nam công tác để nghiên cứu về gốm sứ. Năm 1989, ông quyết định mở lò sản xuất các sản phẩm gốm theo đường lối riêng của mình.
Trần Độ là tác giả của 80 món quà tặng, gồm những sản phẩm phục cổ, giả cổ, trong đó có một chiếc bình rượu cổ triều Mạc mà Văn phòng Chính phủ đặt làm quà lưu niệm cho các nguyên thủ quốc gia tham dự Hội nghị Cấp cao ASEM5 tổ chức tại Hà Nội tháng 10-2004. Một năm sau đó, ông là người duy nhất được chọn thực hiện lô hàng đặc biệt gồm 219 món đồ gốm với gần 10 loại sản phẩm phục chế theo nguyên mẫu còn lưu giữ trong sách cổ và mẫu lưu tại Bảo tàng Nghệ thuật, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Những “món đồ đất có hồn” này sau đó đã theo chân Thủ tướng Phan Văn Khải sang Hoa Kỳ, Canada làm quà cho các chính khách nước sở tại. “Đó không chỉ là niềm tự hào gốm truyền thống Bát Tràng mà còn khẳng định một sức sống mãnh liệt ẩn dưới lớp áo cứ ngỡ là vô tri của đất… ” – Trần Độ nói. Lò gốm của ông đã từng được đón tiếp nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước như nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa, Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng...

“Ông vua men gốm”

Người làm gốm tài danh của Bát Tràng, mỗi người làm gốm đều có sở trường khác nhau. Có người chú ý nhiều về đường thẳng, tam giác, so le, cắt vát làm sao cho nước men sáng mầu, ít vẽ trang trí. Có người lại rất chú ý đến những loại men mới, kiểu tráng men hai lớp khác nhau trong một sản phẩm hoặc cho ra những đồ gốm thô, gốm men chảy…
Trần Độ chọn cho mình một lối đi riêng, không hề đơn giản: tìm tòi phục chế những hình khối, màu men cổ.
Đến nay, trong gia tài Trần Độ đã có được trên 70 bài men cổ. Riêng dòng men ngọc, ông có tới mười hai công thức khác nhau, tạo ra 12 biến tấu của loại men này. Rồi men lam, men rau, men đá, men chảy, men nâu, men đen... Men nâu là mầu nâu trầm rất lạ chưa thấy có ở Bát Tràng. Dùng những bài men đó, ông đã tái phục chế lại hàng trăm sản phẩm gốm cổ từ thời Lý - Trần - Lê như lư hương, chân đèn, bình, lọ, chum, choé, bát đĩa được thể hiện qua các lớp men rạn, men chảy các màu trắng, nâu, xanh ngọc... mà vẫn giữ được những hoa văn cổ xưa, chất men giản dị và thanh thoát. Hơn 50 hiện vật ông phục chế đều đã cung tiến cho Ban Quản lý di tích đền Hùng (Phú Thọ), Đền Đô (Bắc Ninh), Đền Cổ Loa, Khu Di tích vua Lê, và Trung tâm Hoạt động Văn hoá - Khoa học Văn Miếu (Hà Nội).
Trần Độ sinh năm 1957, là thế hệ thứ 18 của dòng họ Trần làm gốm ở Bát Tràng. Ngay từ năm lên 10 tuổi, ông đã tỏ ra là người có duyên với đất khi mày mò tự mình làm ra những đồ vật bắt mắt, khiến ngay những người thợ cao niên cũng phải kinh ngạc.
Một số sản phẩm gốm cổ dưới bàn tay phục chế của Trần Độ
Một số sản phẩm gốm cổ dưới bàn tay phục chế của Trần Độ

Nếu như men ngọc, được các khách hàng châu Âu vô cùng ưa chuộng, thì cách đây 10 năm, qua cuộc triển lãm gốm Việt - Nhật tại Hà Nội với men nâu ông cũng đã dành được nhiều hợp đồng với các doanh nhân người Nhật. 150 mẫu sản phẩm phục chế hình khối, màu men cổ của ông đã được những khách hàng người Nhật tiếp tục mang đi giới thiệu ở các nước khác. Nói như Trần Độ: “Gam màu trong bức tranh văn hóa của Bát Tràng đã được góp phần nhỏ tạo nên những ấn tượng trong lòng những người nước ngoài về một thứ sản phẩm văn hóa được con người thổi hồn vào đất…”.
Với Trần Độ, men không chỉ được tạo ra từ tháng ngày lao động miệt mài mà có những bài men được chắt ra từ “máu và nước mắt”: Nó được chắp nối từ những ý tưởng chập chờn trong lúc tỉnh, lúc mơ, như một thứ sắc màu của ảo ảnh, phải nhìn bằng con mắt của cõi “tâm” mới thấy hết được những cao siêu, thoát tục của nó. Và trong ngôn ngữ men của Trần Độ điều mà nhiều người cảm nhận được là màu sắc của Phật giáo. Đó là một thứ ngôn ngữ trần tục đấy mà thoát tục đấy, rõ là sắc màu của đời thường mà cũng chập chờn như của cõi hư vô…
Trần Độ chia sẻ: “Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, nhiều thương nhân, thợ thủ công từ các nơi tìm về Thăng Long lập nghiệp. Bát Tràng tuy là ngoại thành nhưng là một dải đất quý của Thăng Long, nơi đây mang một thứ mà nội đô không có ấy là thứ đất sét trắng làm nên những sản phẩm chất chứa hồn cốt bao đời của văn hóa Thăng Long. Một số thợ gốm Bồ Bát đã di cư ra đây cùng họ Nguyễn Ninh Tràng lập lò gốm, gọi là Bạch Thổ phường (phường Đất Trắng)”.
Trần Độ giành Huy chương "Bàn tay vàng" do Liên hiệp HTX Thủ công nghiệp trung ương tặng năm 1990; Giải thưởng Đôi bàn tay vàng của Hội Mỹ thuật Đông Dương (1999). Giải thưởng Hà Nội vàng do Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng cùng ban tổ chức Hội chợ Doanh nghiệp VN hướng tới 1000 năm Thăng Long – Hà Nội phong tặng (2002); Giải vàng Ngôi sao Việt Nam (Hội Mĩ thuật Việt Nam); Từng tổ chức thành công triển lãm Hành trình về quá khứ là 1 trong 5 thợ gốm trẻ của làng gốm Bát Tràng nhận danh hiệu nghệ nhân do Bộ văn hoá phong tặng...